‘Vào năm đầu tiên ở trung học, tôi về nhà và thấy mẹ tôi ngồi khóc trên giường của bà. Bà đã lén xem qua e-mail của tôi và phát hiện một tin nhắn, trong đó tôi đã thú nhận mình thích một anh bạn học cùng lớp’, Gabriel Arana kể lại.
Liều thuốc mang tên dị tính
“Con đồng tính à?” bà hỏi. Tôi buột miệng thừa nhận rằng tôi là gay.
“Mẹ biết, từ lúc con còn rất nhỏ”
Sự cam chịu của bà không kéo dài được lâu. Mẹ tôi là một người thích giải quyết các vấn đề, và ngày hôm sau bà đưa cho tôi một chồng tài liệu về các liệu pháp tái xác định lại khuynh hướng tính dục hay còn gọi là ex-gay (“cựu đồng tính”) mà bà đã in ra từ trên Internet. Tôi đã vứt chúng đi. Tôi nói rằng tôi không hình dung được việc nói về bản thân tại một phòng khám trị liệu có thể làm tôi thôi không thích đàn ông nữa. Mẹ tôi trả lời bằng cách hỏi tôi rằng tôi có muốn có một gia đình hay không, và đưa ra một tình huống giả định: “Nếu có một loại thuốc có thể làm con trở thành người dị tính, liệu con có uống nó không?”
Tôi thừa nhận rằng cuộc sống sẽ trở nên dễ dàng hơn nên thứ thuốc đó tồn tại. Tôi chưa từng nghĩ về việc sẽ thích đàn ông suốt cả cuộc đời mình. Trên thực tế, tôi luôn tưởng tượng về bản thân mình trở thành một người đàn ông trung niên, kết hôn với một người phụ nữ, có một con trai và con gái – không phải ai cũng mong có một cuộc sống giống như vậy sao?
“Lối sống đồng tính sẽ rất cô đơn,” mẹ tôi nói.
Bà kể với tôi về Tiến sỹ Joseph Nicolosi, một nhà tâm lý học trị liệu ở California, lúc đó đang là chủ tịch của Hội liên hiệp Quốc gia về Nghiên cứu và Trị liệu Đồng tính luyến ái (NARTH), tổ chức lớn nhất nước cho những người thực hành trị liệu liệu pháp ex-gay. Bà nói rằng Nicolosi đã chữa trị thành công cho hàng trăm người quay trở lại với cuộc sống “bình thường”.
Tôi đọc qua những tài liệu mà mẹ tôi đã lục lại trong đống rác. Chúng là những cuộc phỏng vấn các bệnh nhân của Nicolosi, họ nói về cách mà liệu pháp này giúp họ vược qua được sự chán nản buồn phiền và cảm thấy “thoải mái với sự nam tính của họ.” Những cảm nhận có vẻ đáng tin, và các bệnh nhân có vẻ biết ơn. Tôi đồng ý bay cùng cha tôi từ thị trấn nhỏ gần biên giới Arizona-Mexico của chúng tôi đến Los Angeles để dự buổi tư vấn đầu tiên.
Hy vọng về “cựu đồng tính”
Phòng khám tâm lý Thomas Aquinas nằm trên tầng 13 của một tòa nhà hiện đại trên đại lộ Venture, một trong những con đường chính của thung lũng San Fernando. Góc văn phòng của Nicolosi được trải thảm màu xanh ngọc lục bảo và có những kệ sách bằng gỗ gụ với những tựa sách như “Đồng tính luyến ái: Tự do còn rất xa” và “Đồng tính luyến ái và nền chính trị của sự thật”.
Nicolosi là một người đàn ông trung niên với mái tóc dày và xám đen, lớn lên ở thành phố New York và nói chuyện với một giọng Bronx nhẹ. Bằng một cách mạnh bạo nhưng lịch sự, ông làm tôi bình tĩnh. Khi chúng tôi vừa ngồi xuống, Nicolosi giải thích ý nghĩa của từ “chữa trị”. Mặc dù tôi có thể không bao giờ có một tia cảm xúc thích thú nào khi nhìn thấy một người phụ nữ đi trên đường, trong lúc tiến hành trị liệu, những sự hấp dẫn đồng giới của tôi sẽ giảm dần. Tôi có thể sẽ có những ý nghĩ vương vấn về đàn ông, nhưng chúng sẽ không còn có thể kiểm soát tôi nữa.
Sự thừa nhận của Nicolosi rằng sự thay đổi sẽ không diễn ra tuyệt đối làm cho lý thuyết này có vẻ hợp lý. Sự tự tin của ông vào kết quả điều trị làm tôi hy vọng. Trước khi nói chuyện với Nicolosi, tôi đã buộc bản thân mình chấp nhận ý nghĩ rằng, dù muốn hay không, cuộc sống của tôi sẽ phải làm quen dần với việc tôi đồng tính. Nhưng có lẽ tôi có thể kiểm soát được việc này.
Nửa cuối của buổi tư vấn, tôi nói chuyện với Nicolosi một mình. “Hãy kể cho tôi nghe về các bạn của cậu ở trường,” ông nói. Tôi nói rằng tôi có hai người bạn thân là nữ.“Bạn nam thì sao?” Tôi thừa nhận rằng tôi luôn có vấn đề với việc tiếp xúc với các bạn nam cùng tuổi. Ở trường, tôi thường thích giúp đỡ giáo viên dọn dẹp phòng học vào giờ giải lao hơn là chơi thể thao.
“Cậu có cảm thấy cởi mở với liệu pháp này?” Nicolosi hỏi. “Nếu cậu nghĩ việc này không hiệu quả, cậu có thể dừng bất cứ lúc nào.”
Tôi đồng ý bắt đầu các buổi trị liệu hằng tuần qua điện thoại. Sau khi buổi gặp mặt riêng của chúng tôi kết thúc, tôi tham gia liệu pháp nhóm với một số bệnh nhân khác của Nicolosi. Tôi là người trẻ nhất trong số họ. Những người đàn ông khác – khoảng bốn đến năm người – đều đang ở độ tuổi bốn mươi hoặc năm mươi và nói về những năm tháng sống “lối sống đồng tính”, lối sống chỉ mang lại sự bất hạnh. Họ muốn một cuộc sống bình thường, sung túc. Họ đã chán với cảnh tiệc tùng, hộp đêm, sử dụng thuốc, sự phóng túng; những mối quan hệ của họ không kéo dài; họ than phiền rằng nền văn hóa đồng tính bị ám ảnh bởi tuổi trẻ.
Nếu việc là người đồng tính có nghĩa là như vậy – và với việc hơn tôi 30 tuổi, họ hiểu rõ điều đó hơn tôi – thì có vẻ tôi cũng bắt đầu muốn một cuộc sống bình thường.
Thời hoàng kim của phong trào “cựu đồng tính”
Tôi rời văn phòng với một bản của quyển sách mới nhất của Nicolosi, “Chữa lành đồng tính luyến ái”, và một tờ giấy phân loại các cảm xúc khác nhau với các đề mục “bản chất thật” và “bản chất ảo”. Bản chất thật cảm thấy nam tính, phù hợp, tự tin và cảm thấy thoải mái với cơ thể của mình. Bản chất ảo không cảm thấy nam tính, cảm thấy mình không phù hợp và bất an, và xa lạ trong cơ thể của mình. Điều này nghe có vẻ đúng. Tôi đã từng bị chọc ghẹo suốt thời thơ ấu của mình vì quá nữ tính, và là một thiếu niên cao gầy, nhút nhát với làn da xấu, tôi thực sự cảm thấy không thoải mái với cơ thể mình.
Một tài liệu khác miêu tả “mối quan hệ tay ba” dẫn đến đồng tính luyến ái: một người cha thụ động, xa cách; một người mẹ quá quan tâm, bảo bọc; và một đứa trẻ nhạy cảm. Tôi gần gũi với mẹ tôi hơn với cha. Tôi vốn rất nhút nhát. Câu chuyện của tôi có vẻ phù hợp, và điều đó thật an ủi: Nó cho tôi niềm tin rằng tôi có thể được chữa lành.
Theo Nicolosi, sự gắn bó với một phụ huynh khác giới nằm ngoài “thiết kế” sinh học và tiến hóa của chúng ta. Chính vì điều này mà con người không thể trở nên hoàn thiện thông qua các mối quan hệ đồng tính. Tôi muốn trở nên hoàn thiện.
Vào ngày 13.07.1998 – năm tôi bắt đầu trị liệu – một trang quảng cáo xuất hiện trên tờ New York Times với một người phụ nữ tươi cười cùng nhẫn đính hôn và ban nhạc đám cưới. “Tôi là bằng chứng rằng sự thật có thể giải phóng bạn,” cô ấy tuyên bố.
Người phụ nữ ấy, Anne Paulk, nói rằng việc bị lạm dụng trong thời niên thiếu đã làm cô ấy trở nên đồng tính, nhưng cô ấy đã được chữa lành bởi sức mạnh của chúa Jesus. Chiến dịch quảng cáo trị giá 600.000 đô la – được tài trợ bởi 15 tổ chức tôn giáo, bao gồm cả Liên minh Công giáo (Christian Coalition), Hội đồng Nghiên cứu Gia đình (Family Research Council), và Hiệp hội Gia đình Hoa Kỳ (American Family Association) – được tiến hành vài tuần trên các tờ báo như The Washington Post, USA Today, và tờ Los Angeles Times. Robert Knight thuộc Hội đồng Nghiên cứu Gia đình gọi nó là “cuộc đổ bộ Normandy trong cuộc chiến văn hóa”.
Tan rã từ bên trong
Một thành viên của ban tư vấn khoa học của NARTH thổi bùng lên ngọn lửa tranh cãi bằng việc cho rằng việc người da đen chịu sự nô lệ là tốt cho họ, vì nó đã giải phóng họ khỏi lục địa Châu Phi “man rợ”. Ngay sau đó, ủy ban của NARTH loại bỏ Nicolosi khỏi vai trò chủ tịch. Vào năm 2010, thư ký điều hành của NARTH, Abba Goldberg, bị phát hiện là một kẻ lừa đảo từng ngồi tù 18 tháng.
Các nhà trị liệu hợp tác với NARTH và Exodus bị tố cáo là đã tấn công tình dục các khách hàng của mình hoặc đã tiến hành các phương pháp trị liệu đáng ngờ. Một trong số đó là Alan Downing, nhà trị liệu chính của JONAH (Jews Offering New Alternatives to Homosexuality), người đã buộc bệnh nhân của mình thoát y và tự sờ soạng cơ thể của họ trước gương; Christopher Austin, thành viên của NARTH, bị kết tội “gây ra hành vi giao cấu một cách trái pháp luật, có chủ ý và có nhận thức” của một khách hàng; và Mike Jones, hội viên của Exodus, đã yêu cầu một bệnh nhân cởi áo ra và thực hiện động tác chống đẩy.
Phong trào này cũng gặp phải sự rời bỏ của các thành viên có tiếng nói. John Evans, người thành lập đoàn mục sư ex-gay đầu tiên bên ngoài San Francisco, từ bỏ liệu pháp chuyển đổi này khi một người bạn của ông tự tử sau khi thất bại trong việc trở thành dị tính. Peterson Toscano, một người từng tham gia ex-gay trong vòng 17 năm, thành lập Beyond Ex-Gay, một cộng đồng trực tuyến cho các “người sống sót ex-gay”.
Vào năm 2007, đồng sáng lập viên của Exodus, Michael Bussee đã xin lỗi về vai trò của mình trong việc sáng lập tổ chức này. Như một phần của lời phản hồi tới sự trỗi dậy của liệu pháp ex-gay, những tổ chức chuyên nghiệp chính thức cũng đã chọn những lập trường cứng rắn hơn. Từ năm 2007 tới năm 2009, Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ đã thực hiện một tập phê bình đối với các tác phẩm về nỗ lực thay đổi khuynh hướng tính dục. Judith Glassgold, chủ tịch của nhóm thực hiện báo cáo này nói rằng không hề có một bằng chứng khoa học nào chứng minh rằng liệu pháp ex-gay có tác dụng. Trên thực tế, họ cho rằng liệu pháp này mang nguy cơ khiến cho bệnh nhân lo lắng, trầm cảm và đôi lúc muốn tự tử.
Tổ chức APA hiện nay khuyến cáo các thành viên của mình không nên tham gia vào việc trị liệu này.
Trong những năm vừa qua, ngay cả sự ủng hộ của Exodus cho liệu pháp ex-gay cũng bắt đầu xuất hiện rạn nứt. Tổ chức này trở nên mềm mỏng hơn trong các phát biểu của mình, khuyến khích các đoàn mục sư của mình tuyên truyền sự độc thân thay vì thay đổi để sống đúng chuẩn mực tôn giáo. Tổ chức này không còn nói về “sự tự do thoát khỏi đồng tính luyến ái” – khẩu hiệu của nó – mà thay vào đó là ca ngợi sự thanh cao khi cố cưỡng lại các cám dỗ từ người cùng giới.
Exodus cũng bắt đầu tách khỏi NARTH. Vào tháng 9 năm 2011, Exodus đã loại bỏ những chỉ dẫn tham khảo tới các sách và bài báo của Nicolosi trên trang web của mình. Vào tháng 1, chủ tịch Exodus Alan Chambers phát biểu tại một cuộc gặp tạiMạng lưới Người Công giáo Đồng tính (Gay Christian Network). Khi được hỏi về khả năng thay đổi khuynh hướng tính dục của người đồng tính, Chambers – người từng tuyên bố rằng ông ta biết vài ngàn trường hợp thành công – đã nói rằng “99%” những người cố thoát khỏi sự hấp dẫn đồng giới đã thất bại.
Hậu quả của “cựu đồng tính”
Tôi có cơ hội được biết một số khách hàng cũ của Nicolosi và những người tham gia trị liệu cùng với các thành viên NARTH. Như một phần của mạng lưới những ex-gay từ bỏ trị liệu, chúng tôi thường gặp nhau tại các buổi hội thảo và tương tác với nhau qua các blog. Có lẽ người nổi tiếng nhất trong số đó là Daniel Gonzales, người tham gia viết bài cho web Box Turtle Bulletin.
Nicolosi đã từng yêu cầu Daniel tham gia vào nghiên cứu của Spitzer. Khi Daniel ngừng trị liệu, anh nghĩ rằng anh đã tìm được sự thấu hiểu đáng giá về tình trạng của mình nhưng cuối cùng đã ngừng đấu tranh phản kháng lại sự hấp dẫn từ những người cùng giới. “Tôi đã lãng phí 1 năm rưỡi đời mình vào liệu pháp này,” anh nói. “Trong một thời gian dài, những điều Nicolosi nói về các mối quan hệ đồng tính tiếp tục ám ảnh tôi.” Những mối quan hệ với nam giới của anh liên tục thất bại vì anh ấy bị thuyết phục rằng, như Nicolosi nói, các mối quan hệ đó sẽ sớm tan vỡ ngay khi anh cảm thấy thoải với chúng và thoải mái trong bản chất nam tính của mình.
Những ý tưởng của Nicolosi không chỉ ám ảnh tôi. 2 năm đầu của đại học, chúng là cơ sở của cách tôi nhìn về bản thân mình: một kẻ phong cùi không còn hy vọng được cứu chữa. Tôi không lộ diện là gay những vẫn có những mối quan hệ tình dục chớp nhoáng với bạn học. Tôi bị trầm cảm ngày càng nghiêm trọng nhưng không dám đi tư vấn sức khỏe tâm thần vì sợ những nhà trị liệu sẽ thông báo với cha mẹ tôi rằng tôi đang trở lại “đời sống đồng tính”.
Tôi lên kế hoạch cho bản thân phòng trường hợp cha mẹ tôi quyết định không trợ cấp cho tôi nữa. Tôi sẽ ở lại New Haven và kiếm việc. Tôi sẽ nộp đơn xin học bổng từ Quỹ Point, quỹ trợ cấp tài chính cho thiếu niên đồng tính bị cha mẹ từ bỏ. Tôi sẽ không trở về Arizona. Tôi sẽ không đi gặp các nhà trị liệu ex-gay.
Tôi dành hàng giờ đứng trước cửa sổ của căn phòng mình ở tầng 3, tự hỏi rằng nhảy xuống liệu tôi có chết không hay chỉ bị liệt thôi. Tôi được kê toa dùng Ambien và đã nghĩ đến việc uống hết cả lọ thuốc và ngồi chờ ở rìa cửa sổ cho đến khi thuốc có tác dụng – như một cách bảo đảm.
Tôi không biết chắc vì sao những ý nghĩ kia lại xuất hiện trong đầu mình. Có lẽ là vì áp lực học tập kết hợp với mâu thuẫn ngày càng tăng giữa lý tưởng và hành vi của tôi. Nhưng vào mùa xuân của năm thứ 2 đại học, những phần khác nhau của con người tôi đã tìm cách kết hợp lại với nhau – một phần của tôi cho rằng việc đồng tính là sai trái, một phần vẫn quan hệ với nam bất kể thế nào, một phần tôi để thế giới thấy, và phần khác chịu đựng trong âm thầm – tất cả đều được tháo gỡ. Tôi ngủ từng giấc 20 phút trong vòng 2 đêm, kiệt sức bởi nỗi tuyệt vọng. Tôi nhìn vào lọ thuốc được kê toa nằm trên tủ quần áo với một sự lo lắng kích động. Tôi đã đạt đến điểm mà tại đó tôi cảm thấy sợ bản thân mình hơn là những việc sẽ xảy ra nếu tôi đồng tính.
Đối diện với bản thân
Nhận thấy bản thân mình đã đến gần quyết định tự tử như thế nào, tôi đi đến văn phòng trưởng khoa và nói rằng mình muốn tự tử. Ông đưa tôi đến Khoa sức khỏe sinh viên, và tôi được nhận vào Bệnh viện Tâm thần Yale. Trong lúc phỏng vấn nhập viện, tôi đã trở nên hoảng loạn và đưa cho người cố vấn một mảnh giấy viết tay rằng, “Dù có chuyện gì xảy ra, xin đừng đưa tôi ra khỏi đây.” Tôi ghi rõ ngày tháng và ký đầy đủ họ tên của mình trên đó. Hơn tất cả mọi điều, tôi sợ phải về nhà.
Đêm đầu của tôi tại bệnh viện lạnh lẽo và xám xịt. Tôi nhớ rằng mình đã nhìn ra ngoài cửa sổ, trong căn phòng bệnh tôi nằm chung với một bệnh nhân tâm thần phân liệt. Tuyết phủ đầy mặt đất dưới cái sân bị rào kín. Không ngủ được, tôi gom một chồng tạp chí từ khu vực chung và xem qua các trang, ngắm những người đàn ông trong các quảng cáo thời trang. Tôi xé những tờ quảng cáo và bỏ chúng vào một túi hồ sơ nhựa. Tôi nằm trên giường và ôm túi hồ sơ ấy vào ngực. “Sẽ ổn thôi, sẽ ổn thôi, sẽ ổn thôi,” tôi tự nhủ thầm.
Tôi vẫn phải về nhà trong vòng 1 năm trước khi quay lại trường. Đến lúc đó, cha tôi đã bay đến New Haven vào ngày tôi tự nhập viện, nhận ra rằng liệu pháp đó – và áp lực ông và mẹ tôi đã đặt lên tôi – gây hại hơn là giúp ích cho tôi. “Cha thà có một đứa con đồng tính còn hơn là mất con,” ông nói.
Lần thử thách này là một bước ngoặt. Dù phải mất nhiều năm tư vấn để thức tỉnh tôi khỏi những ý tưởng tôi học được khi tham gia trị liệu với Nicolosi, đây là lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với những nhà tư vấn chuyên nghiệp khẳng định khuynh hướng tính dục của tôi, và lần đầu tiên tôi cho phép mình nghĩ rằng là người đồng tính là chuyện bình thường.
Cuộc tư vấn cuối cùng
“Tôi sẽ hỏi vì sao ông ấy không dừng nó lại.”
Tôi rất hồi hộp về việc nói chuyện lại với Nicolosi, lo sợ về những thứ mà cuộc đối thoại này có thể gợi lại. Ông ấy hiểu rõ con người niên thiếu của tôi hơn cả cha mẹ mẹ hay bạn bè tôi.
Khi tôi nói chuyện với Nicolosi qua điện thoại lần đầu, ông nói ông nhớ tôi rất rõ và ông rất ngạc nhiên rằng tôi “đi vào con đường đồng tính. Cậu có vẻ thật sự hiểu được điều đó.” Cuộc trò chuyện rất ngắn. Ông ấy đang làm việc với bệnh nhân nên chúng tôi hẹn gặp vào ngày khác.
Tôi gọi và nói với ông rằng tôi sẽ ghi âm cuộc trò chuyện này. “Tôi cũng sẽ ghi âm,” ông đùa, “phòng trường hợp cậu kể lại rằng, ‘Nicolosi nói rằng bọn đồng tính là bọn bệnh hoạn dị hợm và biến thái và tất cả bọn chúng nên xuống địa ngục.’”
Tôi cười. Ông vẫn như ngày nào – bông lơn và ấm áp. Ông nói rằng ông đã nghĩ về tôi suốt kể từ lúc tôi gọi. Tôi hỏi tại sao, nếu ông đã rất chắc chắn rằng tôi “đã ngộ ra được”, tôi vẫn không thay đổi được khuynh hướng tính dục của mình.
Nicolosi nói rằng kỹ thuật của ông đã được cải tiến – ngày nay bệnh nhân của ông tập trung vào sự hấp dẫn giới tính thay vì chỉ nói chung chung về nguyên nhân của đồng tính luyến ái. Liệu pháp, ông nói, đã trở nên hiệu quả hơn. Tuy nhiên, một phần lý do liệu pháp này đã thất bại với tôi, ông nói, là vì tôi đã bế tắc: Không có người đàn ông nào có thể liên kết được với tôi, và cha mẹ tôi đã không hiểu tôi. Vẫn là những điều ông nói với tôi suốt thời trung học.
Còn những người khớp với mô hình của ông thì sao? “Sau gần 30 năm làm việc, tôi có thể nói với cậu rằng tôi chưa từng gặp một người đồng tính nào có được một mối quan hệ yêu thương và tôn trọng đối với cha mình,” ông nói. Tôi đã nghe hết những điều này từ trước đây.
Tôi suy nghĩ, trong lúc ông ấy nói, tất cả những điều ông nói về tìm hiểu về tình trạng đồng tính luyến ái, việc thực sự là người đồng tính nằm ngoài trải nghiệm của Nicolosi. Đối với ông ấy, việc thay đổi khuynh hướng tính dục của một người là một mệnh đề giả định. Ông chưa từng sống trong hoàn cảnh đó. Chỉ có những bệnh nhân của ông phải trải qua sự thất bại của ý tưởng của ông ta.
Sống cuộc đời của chính mình
Tôi hỏi rằng ông nhớ điều gì nhất ở tôi. “Tôi chỉ có thể hình dung một thiếu niên trong phòng của mình ở một thị trấn nhỏ,” ông nói. “Cậu thường kể cho tôi về sự cô đơn, những đứa trẻ ở trường – cậu thật sự không có bạn. Cậu tuyệt vọng muốn thoát ra.”
Ông đang cố dụ tôi, làm cho tôi nói chuyện với ông một cách cởi mở. Ông là nhà trị liệu, và tôi một lần nữa làm bệnh nhân của ông. Tôi rất ít nói. Tôi kể với ông rằng tôi cuối cùng cũng rời Arizona.
“Và tôi đã khuyến khích cậu, đúng không?” ông nói. “Thành thật nhé, Gabriel, tôi muốn cậu xem tôi như một người đã không làm cậu cảm thấy tồi tệ hơn về bản thân mình, một người không đã không buộc cậu làm hoặc tin vào bất cứ điều gì ở bản thân cậu mà cậu không muốn tin.”
Đúng là trong thời gian trị liệu, tôi đã không cảm thấy bị buộc phải tin vào lý thuyết của ông. Như phóng xạ hạt nhân, những tổn hại xuất hiện sau này, khi tôi nhận ra rằng khuynh hướng tính dục của tôi sẽ không thay đổi. Tôi đã có thể kể cho Nicolosi về những ý định tự tử của mình, thời gian tôi ở trong viện tâm thần. Tôi đã có thể kể với ông rằng cha mẹ tôi vẫn không thể hiểu nổi tôi nhưng giờ đây tôi đã trưởng thành và điều đó không còn ảnh hưởng nhiều tới tôi nữa. Tôi đã có thể kể với ông rằng tôi đã kết hôn với một người đàn ông.
Nhưng tôi nhận ra rằng điều đó sẽ không giúp ích được gì: Tôi đã thay đổi từ khi tôi bỏ trị liệu, nhưng Nicolosi thì không. Trong nhiều năm tôi đã chia sẻ những suy nghĩ và cảm xúc thầm kín nhất với ông. Bây giờ tôi muốn giữ nó cho bản thân mình.
Theo Một thế giới